Home » Chia sẻ, Khoa học, Tiêu Điểm » “Vụ án” sương mù độc giết người hàng loạt

Năm 1986, một trận sương mù bí ẩn bất ngờ bao phủ một khu vực dân cư gần hồ Nyos ở Cameroon, đã cướp đi mạng sống của gần 2.000 người chỉ trong một đêm.

2.000 người chết bí ẩn trong 1 đêm

Vào đêm ngày 21/8/1986, một đám sương mù khổng lồ xuất hiện phía trên hồ Nyos ở vùng núi hẻo lánh nằm tận tây bắc đất nước Cameroon. Đám sương trắng nặng nề từ từ trườn xuống những ngọn đồi, tràn vào thung lũng và các làng mạc quanh đó và làm ngạt thở tất cả các sinh vật trên đường đi của nó.

Kết quả là 1.700 người được tìm thấy đã chết một cách bí ẩn vào buổi sáng hôm sau. Trên thi thể họ không có một dấu hiệu nào chứng tỏ đã bị chấn thương hay có một cuộc đụng độ nào đó dẫn tới tử vong – Cha Anthony Bangsi, một nhà truyền giáo tại làng Subum nhớ lại sự kiện khủng khiếp trên.

Nhiều thi thể người dân đã bị đốt cháy và một số người sống sót đã mô tả lại rằng họ đã ngửi thấy mùi khí lưu huỳnh trong đêm đó.

Cha Anthony là một trong số những nhân chứng may mắn sống sót sau thảm họa đã xóa sổ gần như toàn bộ ngôi làng. Nhưng Cha cũng như bất kỳ người dân địa phương may mắn thoát chết đều không thể giải thích được chuyện gì đã xảy ra.

Sương mù đã làm ngạt thở tất cả các sinh vật trên đường đi của nó.

Trong ngày hôm đó, tin tức về quy mô của thảm kịch đáng kinh ngạc trên đã lan ra ngoài biên giới Cameroon khiến nhiều người không khỏi bàng hoàng và hồ nghi về một hiện tượng thiên nhiên bí ẩn nào đó đã đột ngột xuất hiện.

Nhưng đây không phải là lần đầu tiên câu chuyện lạ lùng này diễn ra. Năm 1984, đã có 37 người dân sống ở vùng hồ Monoun, cách hồ Nyos 59 dặm về phía đông nam, cũng qua đời một cách bí ẩn. Giống như trong thảm họa ở hồ Nyos, các nạn nhân đều chết đột ngột trong đêm mà không có bất kỳ một dấu hiệu nào cho thấy có một cuộc va chạm trước lúc họ qua đời.

Sương mù là một đám mây khí độc

Chuyên gia người Mỹ có tên là George Kling là một trong những nhà khoa học đầu tiên xuất hiện tại hiện trường thảm họa Nyos sau sự kiện. Ông tin rằng đã có một vụ phun trào núi lửa dưới lòng hồ và cho rằng đó có thể chính là nguyên nhân dẫn tới những cái chết bí ẩn.

Tuy nhiên, Kling lại không thể tìm thấy dấu vết của một dòng dung nham nóng, hay bất kỳ thứ gì chứng tỏ rằng đã từng có một đợt phun trào nào đó dưới lòng hồ. Hơn nữa, nhiệt độ của hồ cho thấy chúng thực sự mát lạnh hơn cả bình thường chứ không phải đã được làm nóng sau một vụ phun trào dung nham.

Khi đó, Kling lại cảm thấy nghi ngờ giải thuyết ban đầu của mình và nghĩ rằng có lẽ núi lửa không phải là nguyên nhân dẫn tới cái chết của gần 2.000 người dân nơi đây. Nhưng vậy nếu không phải do khí núi lửa gây ra thì thứ gì đã đứng đằng sau câu chuyện này?

Ông bắt đầu chuyển hướng điều tra điều tra và hướng tới một giả thuyết đã được đưa ra trước đó của nhà nghiên cứu núi lửa người Iceland tên là Haraldur Sigurdsson, người đã từng đến Cameroon điều tra về một thảm kịch tương tự năm 2 năm trước ở hồ Monoun.

Sigurdsson cũng đã thăm dò để xác nhận có phải hoạt động của núi lửa là nguyên nhân dẫn tới thảm kịch này hay không, các xét nghiệm của ông cũng cho thấy không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng chính núi lửa đã phun trào dung nham và khí nóng có lưu huỳnh.

Tuy nhiên, Sigurdsson lại phát hiện thấy trong nước hồ Monoun có chứa hàm lượng cao khí CO2, một loại khí tự nhiên có thể giết chết người qua đường hô hấp. Sigurdsson đã xây dựng lên một giả thuyết được gọi là “hồ lật đổ” cho rằng chính hồ nước đã tự phun trào và giải phóng lượng lớn khí độc mà nó tích tục lại thành đám sương mù có khả năng giết người hàng loạt.

Nhưng trên thực tế chưa từng có trường hợp nào như thế này xảy ra trước đó được ghi nhận, cộng với sự hạn chế của khoa học lúc bấy giờ, đã khiến giải thuyết của Sigurdsson trở nên có quá nhiều sơ hở ở thời điểm đó.

Bởi vậy, các nhà khoa học cùng thời với ông đã bỏ qua giả thuyết đó. Ông đề nghị kiểm tra nồng độ CO2 của các hồ khác trong vùng nhưng đã bị Chính phủ Cameroon từ chối. Chính sai lầm này đã dẫn tới sự thiệt hại lớn là mạng sống của 2.000 người dân quanh vùng hồ Nyos hai năm sau đó.

Trở lại vụ án bí ẩn ở hồ Nyos, George Kling càng tin rằng giả thuyết của Sigurdsson là đúng. Ông đã độc lập tiến hành thử nghiệm nước trong hồ Nyos và nhận thấy có một lượng lớn khí CO2 trong vùng nước sâu của hồ. Ông cho rằng chính loại khí tự nhiên này đã bốc lên thành một đám mây độc hại và đầu độc 3 ngôi làng ven hồ. Đám mây này không thể trông thấy bằng mắt thường, chúng di chuyển rất êm và không có mùi. 3 yếu tố đó hợp lại khiến nó trở thành một kẻ giết người hoàn hảo.

Giải thuyết này cũng khá phù hợp với những vết bỏng được phát hiện trên thi thể các nạn nhân. Nó được gây ra bởi khí CO2 lạnh chứ không phải khí nóng từ núi lửa.

Kling cũng dẫn chứng những kết quả nghiên cứu của không quân Hoa Kỳ cho thấy, việc tiếp xúc với lượng lớn khí CO2 có thể dẫn tới ảo giác, khiến họ tưởng tượng rằng chúng có mùi lưu huỳnh.

Chính từ giả thuyết này đã mở đường cho các nhà khoa học hiện đại vạch trần được bộ mặt thật của kẻ giết người bí ẩn.

Núi lửa tiếp tay cho kẻ giết người

Hồ Nyos và hồ Monoun đều là những hồ năm trên miệng núi lửa. Chúng được hình thành trong quá trình nguội đi của núi lửa và do tích tụ nước mưa.

Trong hầu hết các loại hồ này, các tầng nước luân chuyển từ trên mặt dưới đáy hồ và ngược lại theo một chu kỳ. Trong quá trình đó, các khí từ lòng đất xâm nhập vào đáy hồ cuối cùng sẽ được giải phóng ra bầu khí quyển.

Nhưng hồ Nyos, hồ Monoun và cả hồ Kivu ở Đông Phi lại không giống như vậy. Các lớp nước hồ không có sự luân chuyển trên dưới và vì vậy khí độc khi xâm nhập ở đáy hồ sẽ bị khóa chặt tại đây.

Khi xuất hiện một cơn bão hay một trận lở đất, địa chấn mạnh sẽ làm một lượng lớn nước trên bề mặt chìm xuống đáy và đồng thời đẩy nước từ dưới đáy lên trên. Khí độc từ trạng thái hòa tan sẽ thoát ra ngoài giống như các bọt khí nổi lên từ một chai nước bị mở nắp.

Theo tính toán của các nhà khoa học, trong sự kiện hồ Nyos năm 1986, khí và nước đã bốc lên thành cột cao khoảng 80 m, di chuyển với tốc độ 45 dặm mỗi giờ và lan đến những ngôi làng cách đó 12 dặm. Ước tính, hồ đã nhả ra khoảng 1 km3 khí CO2 đủ để lấp đầy 10 sân bóng đá. Tại hồ Monoun, đám mây khí này nhỏ hơn nhưng cũng đủ làm 37 người thiệt mạng.

Khống chế sự phát tán đám sương mù khí độc

Trên thực tế, lượng khí độc trong hồ Nyos và Monoun hiện nay còn lớn hơn cả trước đợt phun trào năm 1986, khiến những người dân sống quanh khu vực này không khỏi lo lắng.

Đầu năm 2010, một nhóm các nhà khoa học người Mỹ đã bắt đầu tiến hành tháo gỡ tình trạng “ngòi nổ” cho hồ Nyos bằng cách đặt một ống polyethylene xuống sâu dưới đáy hồ, làm cho nước giầu khí CO2 dưới đó sủi bọt lên và giải phóng bớt khí CO2 vào khí quyển. Nhờ vậy, áp suất ở đáy hồ sẽ giảm, hạ thấp nguy cơ phun trào.

Ngoài việc đặt hệ thống đường ống khử khí độc, các nhà khoa học còn lắp một hệ thống cảnh báo sớm trên mỗi hồ. Khi nồng độ CO2 tăng cao, còi báo và ánh sáng nhấp nháy sẽ hoạt động, báo động cho người dân sống trong vùng có thể chạy thoát.

Mặc dù vậy, nguy hiểm chưa hẳn đã hết. Theo các nhà khoa học, hồ Nyos vẫn còn chứa lượng khí CO2 khổng lồ và một đường ống đơn độc không đủ để giải phóng hết chúng. Cần có từ 4-5 đường ống tương tự để loại bỏ mối nguy hiểm ở đây cũng như tại hồ Monoun.

Theo bee

Chuyên đề:

Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc