Home » Cổ truyền, Tiêu biểu sideshow, Văn hóa » Chinh phục kinh đô Trung Quốc, câu chuyện người Việt làm Tể Tướng thời nhà Đường

Vào triều đại nhà Đường, nước Việt đang trong thời kỳ ngàn năm bắc thuộc. Tuy nhiên nhân tài thì thời nào cũng có, trong lịch sử có ghi chép về câu chuyện hai anh em họ Khương ở An Nam sang tận kinh đô nhà Đường  khảo thí cùng các anh tài Trung Hoa nơi đây.

Theo gia phả của chi tộc họ Khương ở Yên Định, Thanh Hóa thì dòng họ Khương nổi lên từ thời Khương THần Dực, ông được bổ nhiệm làm Thứ Sử vùng đất Ái Châu (tức Thanh Hóa ngày nay).

Nhà họ Khương ở hương Sơn Ổi, xã Cổ Hiển, huyện Quân Ninh, Ái Châu, quận Nhật Nam (nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa), Khương Thần Dực sinh ra Khương Văn Đĩnh làm đến Huyện thừa Tiến sĩ, Năm 733 ông sinh được con trai đặt tên là Khương Công Phụ, sau đó đến lượt Khương Công Phục chào đời, cà hai anh em đầu rất kháu khỉnh.

Vùng đất Yên Định, nơi Khương Công Phụ được sinh ra. Ảnh Thanhhoa.gov.vn

Vùng đất Yên Định, nơi Khương Công Phụ được sinh ra. Ảnh Thanhhoa.gov.vn

Tài năng từ thuở nhỏ

Hai anh em Công Phụ và Công Phục từ nhỏ đã thể hiện thông minh tuyệt vời, vì thế ông Khương Văn Đĩnh rất vui mừng tìm thầy giỏi dạy học cho hai con.

Trong hai anh em thì người anh Khương Công Phụ có sức học khiến thầy phải kinh ngạc, chẳng mấy chốc đã thông tỏ tứ thư và ngũ kinh; ý nghĩa thâm sâu trong Kinh thư, Kinh lễ cũng được cậu diễn giải thông suốt.

Công Phụ càng học càng thấy ”bể học” thật mênh mông, nên càng ham thích, say mê.

Tiếng tăm về sức học của Công Phụ khiến quanh vùng đều biết, đến nỗi các quan nhà Đường ở quận Cửu Chân đều nể phục cậu bé.

Sau khi học thành tài, hai anh em Công Phụ và Công Phục tham gia kỳ thi Quận, năm ấy An Nam chỉ có 8 sĩ tử đứng đầu sẽ được sang Trường An – kinh đô của nhà Đường để thi tiếp.

Qua các kỳ thi khảo hạch, bất kể là câu hỏi thuộc chủ đề nào, anh em Công Phụ và Công Phục đều làm bài trôi chảy, lời văn mạch lạc khúc chiết, diễn giải thâm sâu, khiến chốn quan trường người Tàu tại An Nam đều vô cùng kinh ngạc. Kết quả Khương Phụ đứng đầu trong 8 sĩ tử và cùng em mình được chọn đến dự thi khoa thi tiến sĩ ở Trường An vào năm 758.

Chinh phục cả kinh đô Trường An

Đến kinh đô Trường An – một trong những chiếc nôi văn minh bậc nhất thế giới thời điểm đó, phố phường tấp nập ngựa xe. Các sĩ tử Trung Hoa dáng vẻ cao ngạo khi tiếp xúc với sĩ tử các nước thuộc chư hầu, thậm chí các giám khảo dường như cũng có xu hướng đánh giá các sĩ tử phương bắc cao hơn.

Trường An. Ảnh pinterest.com

Trường An. Ảnh pinterest.com

Thế nhưng khoa thi năm 758, Khương Công Phụ với tài năng thông tuệ của minh đã vượt qua các kỳ thi sát hạch khó khăn nhất. Trí tuệ của Công Phụ đã chinh phục ngay cả những giám khảo khó tính nhất khiến tất cả đều kinh ngạc.

Bài thi “Đối trực ngôn cực gián” của Công Phụ xuất sắc đến nỗi tất cả các giám khảo đều phải thừa nhận và khâm phục thí sinh xứ An Nam mà điền tên Khương Công Phụ vào bảng vàng, đại khoa tiến sĩ; người em Khương Công Phục cũng làm bài rất xuất sắc và đậu tiến sĩ. Với thành tích này cũng một khoa thi đã có hai anh em người Việt cùng đậu tiến sĩ, đặc biệt Khương Công Phụ đạt điểm cao nhất trên bảng vàng.

Kinh đô Trường An ngựa xe tấp nập. Ảnh minh họa chinatraveldepot.com

Kinh đô Trường An ngựa xe tấp nập. Ảnh minh họa chinatraveldepot.com

Làm quan Tể Tướng trên muôn vạn người chỉ dưới Hoàng Đế

Ngay sau đó Khương Công Phụ được vua Đường Túc Tông (756 – 762) phong quan chức Hiệu Thư Lang; còn người em là Khương Công Phục làm “Lang Trung bộ Lễ” rồi  “Bắc bộ Thị lang”.

Thế nhưng với phẩm cách hơn người, Công Phụ có nhiều chính sách và công lao lớn nên vua Đường tin tưởng phong chức cho làm “Tả Thập Di” chuyên việc giám sát công việc các quan trong triều.

Mỗi khi yết triều, Khương Công Phụ đối đáp trôi chảy mạch lạc, ứng xử thông minh, diễn giải mọi việc đều thâm sâu, khiến các quan trong triều đều khâm phục, vì thế ông được mời vào ”Viện Hàn lâm” làm “Hàn lâm Học sĩ” kiêm chức “Kinh triệu hộ tào tham quân”.

Năm 783 nhà Đường có biến, quân “Kinh Nguyên” tấn công thành Trường An khiến vua Đường Đức Tông phải rời khỏi kinh thành, sau lại có thêm Chu Thử làm phản tự xưng Hoàng Đế.

Khương Công Phụ năm ấy đã 50 tuổi, theo Vua nhiều lần can gián, lập công lớn, vua Đường Đức Tông khi nhìn lại sự việc thấy các lời can gián và tiên đoán của Khương Công Phụ đều chính xác cả, tiếc thay bản thân mình nhiều lần không nghe lời Công Phụ, từ đó Vua tin tưởng phong cho Công Phụ làm “Gián Nghị Đại Phu đồng Trung Thư môn hạ Bình Chương sự”, tức chức hàm “Tể Tướng”, đây là chức quan đầu triều trên muôn vạn người, chỉ dưới Hoàng Đế.

Đây là sự kiện có một không hai trong lịch sử, một người Việt ở xứ An Nam vốn bị xem thường là Chư Hầu lại cầm đầu cả một bộ máy thống trị triều đình phương bắc.

Người Việt có thể tự hào khi có Trần Hữu Lượng trở thành Hoàng Đế Trung Hoa, Khương Công Phụ làm quan Tể Tướng đầu triều thời nhà Đường

(Xem bài: Hậu duệ nhà Trần của Đại Việt trở thành Hoàng Đế Trung Hoa)

Về sự kiện công lao can gián nhà Vua trong cuộc phiến loạn này, Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép như sau: “…(Khương Công Phụ) từng xin giết Chu Thử, vua Đường không nghe. Không bao lâu Kinh sư có loạn, vua Đường từ cửa Thượng Uyển đi ra, Công Phụ giữ ngựa lại can rằng: “Chu Thử từng làm tướng ở đất Kinh đất Nguyên, được lòng quân lính, vì Chu Thao làm phản nên bị vua cất mất binh quyền, ngày thường vẫn uất ức, xin cho bắt đem đi theo, chớ để cho bọn hung ác đón được”. Vua Đường đương lúc vội vàng không kịp nghe, trên đường đi lại muốn dừng lại ở Phượng Tường để nương nhờ Trương Dật. Công Phụ can rằng: “Dật tuy là bề tôi đáng tin cậy, nhưng là quan văn, quân đột kỵ ở Ngư Dương do ông ta quản lĩnh đều là bộ khúc của Chu Thử. Nếu Thử thẳng đến Kinh Nguyên làm loạn, thì ở nơi ấy không phải kế vạn toàn”. Vua Đường bèn đi sang Phụng Thiên. Có người báo tin Thử làm phản, xin vua Đường phòng bị. Vua Đường nghe lời Lư Kỷ xuống chiếu cho quân các đạo đóng cách xa thành một xá, muốn đợi Thử đến đón. Công Phụ nói: “Bậc vương giả không nghiêm việc vũ bị thì lấy gì để oai linh được trọng. Nay cấm binh đã ít người mà quân lính người ngựa đều ở bên ngoài, thần lấy làm nguy cho bệ hạ lắm”. Vua Đường khen là phải, cho gọi hết vào trong thành. Quân của Thử quả nhiên kéo đến, đúng như lời của Công Phụ. Vua Đường bèn thăng cho Phụ làm Gián Nghị Đại Phu, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự…

Trực ngôn can gián

Năm 784 công chúa Đường An chẳng may chết yểu, quá thương con vua ra lệnh xuất tiền công khố để xây tháp vô cùng nguy nga lộng lẫy. Thế nhưng tể tướng Khương Công Phụ lại thẳng thắn can ngăn.

Đang lúc thương tiếc con, lại nghe phải lời trái tai của Công Phụ, vua Đường đã tức giận giáng chức ông xuống làm “tả thứ tử” (chức quan dưới quyền Thái tử, công việc là coi giữ sổ sách cho Thái Tử trong cung) nhưng vì mẹ mất nên cụ được giải chức về chịu tang.

Về sự kiện này sách “An Nam chí lược” ghi chép lời can gián của Khương Công Phụ như sau: “ Sơn Nam không phải là nơi ở lâu dài, vả lại nên tiết kiệm để giúp vào khoản cần cấp của việc quân”. Vua bảo Lục Chí rằng: “ Công Phụ muốn chỉ trích lỗi lầm của Trẫm để cầu danh mà thôi”. Lục Chí tâu rằng: “Công Phụ làm quan Gián nghị, giữ chức tể tướng, bày điều phải, sửa điều trái, chính là bổn phận. Đặt gia phụ thần ở tả hữu để sớm tối nghe lời can ngăn. Thấy cơ nguy thì giúp đỡ ngay, ấy việc của Phụ Thần là như thế”. Vua nói: “ Không phải”. Vua bèn đổi Công Phụ làm Thái Tử tả thứ tử.

Năm Quý Dậu (793) ông bị sai đi biệt giá ở Tuyền Châu (tỉnh Phúc Kiến), ông sống ở đây 14 năm, tự làm nhà dưới chân núi Cửu Nhật Sơn (thuộc huyện Nam Yên), ông kết bạn với một vị quan ở ẩn khác là Tần Huệ, hai người có cảnh ngộ giống nhau, ngày ngày đi dạo chơi cảnh ngắm cảnh sông núi, ngâm thơ, xướng hoạ.

Năm 805 vua Đường Thuận Tông lên ngôi bãi bỏ các chính sách hủ bại thời Đường Đức Tông, phế truất tham quan, hạn chế quyền lực hoạn quan.

Vua Đường Thuận Tông trọng dụng các nhân tài, vì thế mà Khương Công Phụ được cử ra làm quan, thế nhưng do tuổi cao nên chưa kịp nhận chức thì cụ đã mất năm 805 thọ 73 tuổi.

Tưởng nhớ

Để tưởng nhớ cụ người dân ở Tuyền Châu đã tự nguyện góp tiền  xây 2 ngôi đình ở bên ngoài về phía Đông của Châu thành để kỷ niệm nơi cụ cùng quan thứ sử Tuyền Châu từng đến dạo chơi.

Về sau người dân nơi đây lại xây thêm đền thờ Khương Công Phụ tại sườn phía Tây núi Cửu Nhật Sơn, người dân đặt tên một chóp núi cao là “Khương tướng phong” để kỷ niệm nơi cụ đến ở ẩn, tại chop núi “Khương tướng phong” này đến nay vẫn còn mộ của cụ với đầy đủ bia tưởng niệm ghi lại kỳ tích của cụ.

Ngày nay ở Thanh Hóa dòng họ Khương có lập đền thờ Khương Công Phụ tại vị trí ngay trên nền nhà cũ của ông ở làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Vào ngày 10/3 hàng năm, lễ giỗ cụ đều được tổ chức đều đặn ở xã Định Thành, không chỉ đầy đủ con cháu họ Khương cùng người dân trong làng, mà cả người dân nhiều nơi khác cũng đến tham dự. Tại đây lớp lớp con cháu lại được nghe kể về kỳ tích của cụ.

Đền thờ của ông còn lưu lại câu đối của Đốc học Lê Văn Thạc:

Phong vũ dĩ tồi công chúa tháp,

Hải vân trường chiếu trạng nguyên từ.

(Lời dịch của Kiều Văn)

Gió mưa đã nát tháp công chúa

Mây biển mãi soi đền trạng nguyên

Trần Hưng

Theo trithucvn.net


Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc