Home » Cổ truyền, Tiêu biểu sideshow, Văn hóa » Không phải của Lý Thường Kiệt, bài thơ “Nam quốc sơn hà” có từ bao giờ?

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” là bài thơ nổi tiếng nhất trong sử việt và được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.

Bản khắc gỗ và bản dập bài “Nam quốc sơn hà” trong Mộc bản triều Nguyễn tại khu trưng bày ngoài trời Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt. Ảnh wikipedia.org

Bản khắc gỗ và bản dập bài “Nam quốc sơn hà” trong Mộc bản triều Nguyễn tại khu trưng bày ngoài trời Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt. Ảnh wikipedia.org

Trong sách giáo khoa từ trước đến này đều cho rằng bài thơ này của Lý Thường Kiệt nhằm khẳng định chủ quyền dân tộc và khích lệ tinh thần quân sỹ trong cuộc chiến bảo vệ giang sơn chống lại quân Tống lần thứ 2 năm 1077. Từ sách giáo khoa nhiều người đều biết rằng đây là bài thơ của Lý Thường Kiệt.

Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây đã phát hiện rằng, bài thơ này không phải do Lý Thường Kiệt sáng tác mà xuất hiện từ trước đó rất lâu.

Bài thơ “nam quốc sơn hà”

Bài thơ này vốn không có tên, tựa đề “nam quốc sơn hà” xuất hiện trong “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam”, tập 2 (sách do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1976) đặt ra, lấy từ bốn chữ đầu trong câu thơ đầu tiên của bài thơ này.

Bài thơ này có nhiều dị bản khác nhau, bản gốc chữ Hán trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau:

南國山河南帝居,

截然分定在天書。

如何逆虜來侵犯,

汝等行看取敗虚。

Phiên âm Hán Việt:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phận định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Trước đây sách giáo khoa sử dụng bản dịch của học giả Trần Trọng Kim, đây cũng được xem là bản dịch chuẩn mà cũng rất dễ nhớ cho bài thơ này:

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,

Rành rành phân định tại sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Thế nhưng sau này trong sách giáo khoa không còn sử dụng bản dịch của Trần Trọng Kim nữa, một số học giả cho rằng lý do là vì Trần Trọng Kim là học giả nghiên cứu lịch sử nhưng không phải người theo Đảng, vì thế mà bản dịch của ông sau một thời gian không được dùng trong sách giáo khoa nữa.

Bắt đầu từ năm 2003, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1 sử dụng bản dịch của Lê Thước và Nam Trân

Núi sông Nam Việt vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Tuy nhiên trong sách giáo khoa không dùng nguyên văn bản dịch này, mà sửa đoạn đầu “Núi sông Nam Việt vua Nam ở” thành “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.

Bài thơ trong sách ngữ văn lớp 7. Ảnh thethaovanhoa.vn

Bài thơ trong sách ngữ văn lớp 7. Ảnh thethaovanhoa.vn

Bài thơ có từ bao giờ?

Hiện nay có nhiều bằng chứng cho thấy Lý Thường Kiệt không phải là tác giả của bài thơ này.  trong quyển sách “Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn” do một nhóm tác giả thuộc hội nghiên cứu lịch sử Hà Nội lại cho rằng bài thơ này ra đời vào thời Tiền Lê và được Lê Hoàn sử dụng trong cuộc chiến chống lại cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Tống năm 981.

Ngoài ra trong bài viết  bài “Nam Quốc Sơn Hà và Quốc Tộ – Hai kiệt tác văn chương chữ Hán ngang qua triều đại Lê Hoàn” đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5 năm 2005, tác giả là phó Giáo Sư Bùi Duy Tân cũng đã khẳng định rằng bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” có từ thời Tiền Lê.

Trong Lĩnh Nam chích quái, phần “Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” có ghi chép rằng: Năm Thiên Phúc nguyên niên hiệu vua Lê Đại Hành, vua Tống Thái Tổ sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem quân sang đánh Đại Cồ Việt, Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau ở sông Đồ Lỗ. Vua Lê Đại Hành nằm ngủ thấy hai vị thần hiện về báo mộng. Hai vị thần nói với vua, đại ý như sau: anh em thần tên là Trương Hống, Trương Hát, là tướng của Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục). Anh em thần vì nghĩa mà chết nên được phong làm tướng trong các thần linh, thống lĩnh quỷ binh. Nay quân Tống xâm phạm nước ta, anh em thần đến yết kiến, cùng giúp vua đánh giặc để cứu dân chúng.

Vua Lê Đại Hành tỉnh dậy liền đốt hương khấn cầu thần giúp. Đêm ấy thấy một người dẫn đoàn âm binh áo trắng và một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía Bắc sông Như Nguyệt mà lại cùng xông vào trại quân Tống mà đánh. Quân Tống kinh hoàng, lúc này bỗng có tiếng thơ ngâm lớn rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư

Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược

Bạch nhận phiên thành phá trúc dư

Dịch là:

Sông núi nước nam, vua nam ở
Sách Trời định phận rõ non sông
Cớ sao giặc bắc sang xâm phạm?
Bây hãy chờ gươm chém bại vong

Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau chạy tan, đại bại mà về. Vua Lê Đại Hành trở về ăn mừng, truy phong cho hai vị thần nhân, một là Tinh Mẫn Đại Vương lập miếu thờ tại ngã ba sông Long Nhãn, hai là Khước Mẫn Đại vương, lập miếu ở ngã ba sông Nguyệt.

Vậy Trương Hống, Trương Hát là ai? Theo “Việt điện u linh” ghi chép lại thì anh em Trương Hống, Trương Hát là tướng của Triệu Việt Vương (tức Triệu Quang Phục). Khi Triệu Việt Vương bị Lý Phật Tử cướp ngôi, dù được mời nhưng hai anh em không muốn làm quan cho Lý Phật Tử,  về ở ẩn ở núi Phù Long. Lý Phật Tử cho người lùng bắt, hai anh uống thuộc độc, thà chết vẫn trung thành với Triệu Việt Vương.

Hai bộ sử khác nữa từ thế kỷ 16, 17 là “Việt sử diễn âm” và “Thiên nam ngữ lục” cũng cho rằng bài thơ có từ cuộc chiến chống quân Tống năm 981.

Ảnh minh họa từ internet

Ảnh minh họa từ internet

“Việt sử diễn âm” có ghi chép rằng:

Tháng bảy có Tống binh sang 
Toàn những tướng mạnh binh cường ba muôn 
Đến thành Phù Lỗ đóng vây 
Quân ta quân nó đôi bên ngất trời 
Chưa phân thắng phụ về ai 
Ngày rằm tháng chạp vua nằm chiêm bao 
Thấy đôi thần nhân bãi nào 
Trương Hống Trương Hát bước vào quỳ thưa 
Chúng tôi thần đế lòng xưa 
Phụng thờ nhà chúa bấy chừ chẳng sai 
Tiên Hoàng có sắc chỉ bày 
Đòi về phong chức cho tôi tước quyền 
Trung thần bất sự nhị quân 
Chúng tôi tự vẫn làm thần đạo ngay 
Thượng đế thấy bộ thương thay 
Phong chúng tôi rày Quỉ bộ thần quân 
Đại Hành thức dậy mừng thay 
Giết trâu liền có minh tài tế khao 
Đêm sau vua lại chiêm bao 
Thấy mặc áo mới liền vào tạ ơn 
Có một người đứng án tiền 
Lĩnh được trăm áo vàn vàn quỷ binh 
Lấy ra chưng đất Nam Bình 
Đại Hành sực thức gẫm tình mới hay 
Nửa đêm thấy một cơn mây 
Bạo phong hắc ám gió bay vội vàng 
Tống binh mất vía trở dường 
Chúng quỷ đánh gãy đao thương liền cờ 
Bỗng nghe mảng tiếng không hư 
Thần nhân hiện xuống có thơ ngâm rằng 

Thi vân: 

Nam quốc sơn hà Nam đế cư 
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư 
Như hà Bắc lỗ cảm xâm phạm 
Hội kiến phong trần tận tảo trừ

Còn trong “Thiên nam ngữ lục” cũng ghi chép rằng:

Bấy giờ binh mã sửa sang 
Địch cùng Nhân Bảo là thằng giặc Ngô 
Mười buôn binh mạnh thẳng đua 
Qua miền Giang Bắc, đây là Phù Lan 
Đêm thấy hai ngài đến màn 
Xưng danh là Hát, xưng danh là Hồng 
Giúp đời Triệu Việt có công 
Thuở chẳng như lòng, ẩn nội Phù Lan… 
Ơn trên Thượng đế xét thương 
Quyền cho chúa tể giữ phương yên này. 
Bây chừ bệ hạ đến đây 
Nguyện ra giúp nước phá này giặc Ngô 
Phán rằng: Tướng quan y như 
Công nên thời lập miêú thờ trả ơn 
Ngày sau Nhân Bảo ra quân 
Trên không nghe tiếng người ngâm thơ rằng: 
Nam quốc sơn hà Nam đế cư 
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Hội kiến phong trần tận khử trừ

Vậy việc cho rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ là xuất phát từ đâu? Trong bài viết  “Lịch sử, sự thật và sử học” được đăng trong báo Tổ Quốc, số 401 tháng 1/1988,  Giáo Sư Hà Văn Tấn có viết rằng: “Không có một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là “đoán” thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt”.

Ngôi đền cổ kính thờ Thánh Tam Giang Trương Hống – Trương Hát này nằm tại khu vực ngã ba Xà (nay thuộc xã Tam Giang – huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh) nơi hội lưu sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu

Ngôi đền cổ kính thờ Thánh Tam Giang Trương Hống – Trương Hát này nằm tại khu vực ngã ba Xà (nay thuộc xã Tam Giang – huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh) nơi hội lưu sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu

Tác giả của bài thơ

Dù các dẫn chứng lịch sử đều cho thấy bài thơ được ra đời vào thới kỳ đánh Tống lần thứ nhất năm 981, nhưng lại không hề có bằng chứng nào nói về tác giả của bài thơ trên.

Một số người cho rằng tác giả có thể là thiền sư Đỗ Pháp Thuận. Bởi lẽ vào thời vua Lê Đại Hành rất tin tưởng các thiền sư như Pháp Thuận, Định Không, Vạn Hạnh, La Quý, Khuông Việt, Đa Bảo.

Rất nhiều các chinh sách, cũng như kế hoạch đánh Tống, Chiêm Thành, vua Lê Đại Hành đều hỏi qua các thiền sư trước rồi mới tiến hành làm, kết quả đều rất tốt. Vua Lê cũng muốn dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, giúp dân chúng thăng hoa đạo đức, ổn định xã hội, giang sơn bền vững và cường thịnh.

Trong đó thiền sư Pháp Thuận từng nhận rằng mình là người “vận trù kế sách” ngay từ lúc vua Lê Đại Hành sáng nghiệp. Hơn nữa nhiều văn thư quan trọng thời ấy đều do thiền sư Pháp Thuận soạn thảo, ông cũng là người sáng tác ra nhiều thơ ca. Chính vì thế mà có các lập luận cho rằng có thể chính thiền sư Pháp Thuận là tác giả bài thơ này.

Trước những minh chứng lịch sử trên, dường như đã đến lúc cần công bố nguồn gốc bài thơ “Nam quốc sơn hà” – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc có từ thời vua Lê Đại Hành năm 981. Còn tác giả của bài thơ thì đến nay vẫn chưa có một bằng chứng nào thuyết phục cả.

Trần Hưng

Theo trithucvn.net

Chuyên đề:

01 ý kiến dành cho “Không phải của Lý Thường Kiệt, bài thơ “Nam quốc sơn hà” có từ bao giờ?”

  1. Trần Văn Hảo 23/04/2017

    Không phải “…sách giáo khoa không còn sử dụng bản dịch của Trần Trọng Kim nữa, một số học giả cho rằng lý do là vì Trần Trọng Kim là học giả nghiên cứu lịch sử nhưng không phải người theo Đảng, vì thế mà bản dịch của ông sau một thời gian không được dùng trong sách giáo khoa nữa.” mà vì đó là bản dịch nên ai cũng có quyền dịch theo cảm nhận của mình, như chỉ có một “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan nhưng có đến 3 bài hát “Màu tím hoa sim”, ai thích bài nào thì hát bài ấy. Được biết đã có hàng chục bản dịch khác nhau được lưu hành, cũng nên để hs tiếp cận sự sáng tạo của nhiều người, miễn là đừng sửa bản gốc chữ Hán một cách tùy tiện.

    Reply