Home » Cổ truyền, Tiêu biểu sideshow, Văn hóa » Từ cậu bé lạc mẹ đến Tam nguyên Trạng nguyên, ông tổ nghề dệt chiếu

Người dân làng Hới vẫn tự hào rằng: ”Ăn cơm hom, nằm giường hòm, đắp chiếu Hới” bởi vì chiếu nơi đây không chỉ bền đẹp mà còn có thể đắp thay chăn.

Chiếu làng Hới. (Ảnh từ kyluc.vn)

Chiếu làng Hới. (Ảnh từ kyluc.vn)

Hình ảnh chiếu Hới gắn liền với Tam nguyên Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ, ông tổ của nghề chiếu nơi đây.

(Ảnh minh họa từ caotuoi.vn)

(Ảnh minh họa từ caotuoi.vn)

Bị lạc mất mẹ

Phạm Đôn Lễ sinh năm 1457  ở làng Hải Triều (tục gọi là làng Hới) thuộc tổng Thanh Triều, phủ Long Hưng, huyện Ngự Thiên, tỉnh Hưng Yên (nay là thôn Hải Triều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

Ông sinh trưởng trong gia đình nghèo khó, bố là họ Phạm làm nghề chai lưới quê ở huyện Tứ Kỳ, mẹ người làng Hải Triều dựng túp lều tranh đơn sơ làm quán bán nước cho khách qua đò.

Khi ông còn rất nhỏ thì người bố qua đời, hai mẹ con đơn côi sống dựa vào hàng quán.

Mộ lần hai mẹ con đi dạo trên bờ sông Luộc thì Phạm Đôn Lễ bị lạc, người mẹ tìm khắp nơi mà không được. Trong lúc lang thang vì lạc mẹ thì được một gia đình giàu có quê ở Thanh Hóa đưa lên thuyền về nhà nuôi dưỡng.

Tam nguyên Trạng nguyên hiếm có trong sử Việt

Đến tuổi đi học bố nuôi cho Đôn Lễ cùng con trai của mình theo thầy học. Vốn thông minh Đôn Lễ học một biết mười, dù phải vất vả giúp đỡ gia đình nhưng nhưng Đôn Lễ vẫn học vượt trội hơn hết thảy chúng bạn.

Thấy Đôn Lễ thông minh như vậy, thầy học rất quý mến nên dốc lòng truyền thụ cho học trò của mình bởi vì tin rằng đứa bé này rồi nhất định sẽ làm nên nghiệp lớn.

Thời vua Lê Thánh Tông rất xem trọng hiền sĩ, chú trọng khoa bảng, các khoa thi đều tìm được nhân tài rường cột cho Giang Sơn Xã Tắc.

Năm 1481 Phạm Đôn Lễ tham dự khoa thi, các kỳ thì Hương, thọ Hội ông đều đỗ đầu, vào kinh dự thi Đình ông đỗ luôn Trạng Nguyên và trở thành Tam nguyên Trạng nguyên hiếm có trong lịch sử khoa bảng.

Sử liệu có chép rằng: Vua ngự ở Ðiện kinh thiên, thảo ra văn sách, hỏi về lý số, Phạm Ðôn Lễ đều trả lời rành mạch, lời lẽ phóng đạt trôi chảy, vua cho đỗ Trạng nguyên”.

Không màng công danh, lo tìm người mẹ đã thất lạc hàng chục năm

Sau khi vinh quy bái tổ, lúc này cha nuôi mới kể lại chuyện xưa, nói rằng ông chỉ là con nuôi, được gia đình nhận nuôi khi thấy thất lạc ở sông Luộc.

Dù vừa đậu Trạng nguyên nhưng Phạm Đôn Lễ không màng đến phần thưởng cũng như quan chức của Triều đình, việc đầu tiên là ông muốn tìm lại gia đình khi xưa của mình.

Tìm đến nơi mình bị lạc thuở xưa, Trạng Nguyên tìm đến làng Hải Triều bên bờ sông Luộc, ông đến bến đò Cà có quán nước cũ kỹ xiêu vẹo bên bờ sông. Chủ quán là một bà cụ với mái tóc bạc phơ bán nước cho khách bộ hành.

Trạng nguyên vào quán nước nghỉ chân rồi lân la hỏi chuyện, khi hỏi đến con cái thì bà cụ bật khóc kể về đứa con thất lạc khi mới lên 3 tuổi của mình, bà vẫn hàng ngày bán nước nơi đây với hy vọng đứa con trai còn sống sẽ tìm về với mẹ.

Trạng nguyên nghe kể thì quặn lòng hỏi rằng: Cụ còn nhớ con trai cụ có đặc điểm gì nổi bật, dễ nhớ không?   

Cụ già nói trong làn nước mắt: ở giữa gan bàn chân trái chân con trai tôi có nốt ruồi đỏ như son.

Trạng nguyên nghe nói thì đã đoán đây chính là mẹ mình rồi, nhưng vẫn cố nén lòng, xin phép được nhờ nằm trên cái chõng tre, rồi ông cố ý gác chân để lộ nốt ruồi đỏ ở gan bàn chân trái của mình ra.

Bà cụ nhìn thấy thì đột nhiên lại khóc, Trạng nguyên hỏi thì bà đáp rằng: Tôi khóc vì nhìn thấy nốt ruồi ở gan bàn chân trái của quý khách giống như của con trai tôi ngày còn bé.

Trạng nguyên liền chạy đến ôm lấy người mẹ của mình nói mình chính là đứa con đã thất lạc mấy chục năm trước đây.

Người mẹ vừa mừng vừa tủi gặp lại đứa con trai sau hàng chục năm thất lạc, không ngờ gặp lại đã là Tam Nguyên Trạng nguyên của Đại Việt. Sau vài năm sống hạnh phúc cùng con, người mẹ ra đi do tuổi già.

Trạng chiếu

Trong thời gian tang mẹ, Phạm Đôn Lễ thấy dân làng Hải Triều có nghề dệt chiếu, nhưng chiếu làm ra không đẹp, khung dệt lại cao, đay rùi làm cho lá chiếu không phẳng, ông suy nghĩ tìm hiểu nguyên nhân để giúp cho dân làng.

Trở về Triều ông làm quan đến chức Tả thị lang, rồi lên đến Thượng thư.

Phạm Đôn Lễ được cử đi sứ sang nhà Minh, trên đường đi đến vùng Quế Lâm (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc), nhận thấy phong canh nơi đây hữu tình, đoàn sứ liền đi thưởng lãm cảnh đẹp.

Tình cờ Phạm Đôn Lễ nhận thấy người dân nơi đây cũng có nghề dệt chiếu, nhưng những chiếu được làm không chỉ nhanh hơn mà còn đẹp và bền hơn. Qua quan sát ông thấy rằng người dân nơi đây dùng kỹ thuật khác với kỹ thuật làm chiếu ở quê nhà, đặc biệt là nhờ có ngựa đỡ.

Sau khi hoàn thành việc đi sứ, lúc trở về đi qua Quế Lâm, ông mua bàn dệt chiếu rồi mang về làng Hới, ông gọi người phường dệt đến tháo ra nghiên cứu để làm bàn dệt, nhưng họ đều than khó quá và bỏ cuộc.

Phạm Đôn Lễ đành tự nghiên cứu, nhờ tư chất thông minh ông nắm bắt được kỹ thuật. Đồng thời ông còn cải tiến đưa khung dệt chiếu thấp xuống, lại làm thêm ngựa đỡ đay ở trên khung, giúp cho sợi dây thêm căng, đồng thời dùng nêm tre để nêm chèn ở phần cuối khung chiếu, giúp cho sợi đay trên khung không bị chùng xuống. Rồi truyền dạy cho dân chúng.

Từ đó chiếu của làng Hới vừa đẹp, vừa phẳng. Không chỉ vậy, ông còn dạy người dân cách dệt chiếu đậu từ cỏ cói. Chiếu đậu của ông vừa bền, vừa đẹp, lại không bị mốc, lại tinh xảo, thưởng dùng đến 5 – 7 năm mới phải thay. Người dân yêu quý mà gọi ông là Trạng Chiếu

Tưởng nhớ

Dưới thời vua Lê Uy Mục, Triều đình suy thoái, nịnh thần hoành hoành. Phạm Đôn Lê lúc này giữ chức Thượng thư thường can gián nhà vua không nghe lời những kẻ nịnh thần, khiến những kẻ này rất căm ghét ông.

Ðình Quan Trạng xã Tân Lễ (Hưng Hà) nơi thờ Trạng nguyên Phạm Ðôn Lễ - ông tổ nghề chiếu

Ðình Quan Trạng xã Tân Lễ (Hưng Hà) nơi thờ Trạng nguyên Phạm Ðôn Lễ – ông tổ nghề chiếu

Khi cửa sông Luộc bị vỡ, Phạm Đôn Lễ giúp dân kè lại cửa sông bị vỡ. Đúng thời gian đó công chúa bị ốm, những kẻ nịnh thần nhân cơ hội này tâu với nhà Vua rằng: “Công chúa bị ốm là do Phạm Ðôn Lễ đào đắp đê cửa Luộc đã bị phạm đến long mạch”.

Vua nghe lời dèm pha mà khép tội đôn lễ, tuy nhiên nhờ có lời tấu của các trung thần trong Triều, Vua giảm tội cho ông nhưng bắt phải từ quan.

Phạm Đôn Lễ cùng vợ con về Hải Triều, sau đó lại dời về quê phụ thân ở làng Mỹ Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Ông truyền nghề làm chiếu cho người dân, đồng thời mở trường dạy học đến cuối đời.

Sau khi ông mất dân làng cảm kích vị Tam nguyên Trạng nguyên liêm khiết nên xây lăng mộ khá quy mô.

Nghe tin ông mất người dân Hải Triều cũng lập đền thơ với bài thơ được chạm sắc như sau:

Nước sông mênh mang nguồn dòng dài

Nhà từ đường rực rỡ, hương hoa ngát thơm

Vị thần giáng xuống ánh sáng rực rỡ

Mây sáng phiêu diêu, xa giá lượn quạnh

Giáng vẻ ung dung, vang khắp mùa xuân

Hát vang bài ca yên vui, điển chương yên lành

Phúc thần dạt dào, nhân kiệt địa linh

Từng bước đi đưa hương, báo đáp thần linh

Đời đời thờ thần, mãi mãi hoà bình.

(Bản dịch của Viện Hán Nôm)

Hàng năm cứ vào ngày mất của ông mừng 6 tháng giêng, người dân các làng  Hải Triều, Bùi Xá, Hà Xá, Thanh Triều, Kiều Thạch, Mỹ Ðại, Xuân Hải, Xuân Trúc… đều tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến Trạng chiếu

Trần Hưng

Theo trithucvn.net

Chuyên đề: ,

Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc