Home » Cổ truyền, Văn hóa » “Tiên tích đức, hậu tầm long”: Câu chuyện anh em nhà họ Quách

Tổ tiên người Việt từ ngàn xưa luôn dạy rằng muốn thành công phải có đức, “tiên tích đức, hậu tầm long”. Những lời dạy cùng câu chuyện có thật từ xa xưa là văn hóa cổ truyền giúp cho những ai có niềm tin luôn sống có chuẩn mực đạo đức từ đó mà gặt hái thành công.

“Tiên tích đức, hậu tầm long”

Trong Thời Lê Sơ ở xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình có một người họ Quách tính tình thật thà chất phác, không tranh cãi với ai. Một lần khi cuốc đất thì thấy một đĩnh vàng, nghĩ rằng số vàng này không phải của mình nên không thể lấy được, đấy là đạo lý của trời đất, nhưng không biết của ai, kiền đem cất riêng vào một chỗ.

Mấy tháng sau có một người từ phương bắc đến chỗ khu đất ấy kêu khóc, người họ Quách đến hỏi thì người khách đáp rằng tổ tiên có của để lại ở chỗ này. Người họ Quách bèn trả lại số vàng đã đào được.

Người khách cảm tạ nói: “Tôi biết qua địa lý, ở đây có hai ngôi huyệt tốt: một ngôi đời đời kế tiếp làm công khanh; một ngôi đỗ Tiến sĩ một đời, ông thích ngôi nào, tôi sẽ để giúp để báo ơn đức”. 

Người họ Quách thật thà nói rằng: “Nhà tôi nhiều đời nghèo túng, có đâu dám mong quá phận định, chỉ muốn con cháu một đời đỗ Tiến sĩ, công danh hiển hách, thế là đủ rồi”. Vị khách liền để đất giúp.

Đến khi Quách Đình Bảo ra đời thì thông minh, đĩnh ngộ. Thời đấy nổi lên hai người thông minh nức tiếng Quách Đình Bảo và Lương Thế Vinh.

Vua Lê Thánh Tông xem trọng hiền sĩ, chú trọng khoa bảng. Khoa thi năm quý mùi 1463 sĩ tử các nơi nô nức dự thi.

Trước kỳ thi Hội khoảng 3 tháng, Lương Thế Vinh nghe tiếng Quách Đình Bảo từ lâu nên có ý định ghé thăm, đến hàng nước trước cổng làng dò hỏi thì biết rằng Đình Bảo đang đọc sách. Lương Thế Vinh nghĩ: “Kỳ thi gần đến nơi, hãy còn cố sức học, chỉ có tiếng hão thôi, chắc là anh này trong bụng chẳng có uẩn súc gì cả”, liền quay trở về, không gặp Đình Bảo.

Lúc Đình Bảo ra hàng nước thì được nghe nói lại chuyện này, đoán biết người đó là Thế Vinh liền quyết định đến thăm. Thế nhưng khi đến nơi thì Lương Thế Vinh không có nhà, khi hỏi thì được biết Thế Vinh đang thả diều ngoài đồng cùng đám trẻ con. Đình Bảo nghĩ: “Tài học người này, ta không thể theo kịp được”. Trở về nhà, cũng không dùi mài khổ sở nữa.

Kỳ thi Hội năm đó Quách Đình Bảo vượt qua Lương Thế Vinh và tất cả các sĩ tử khác, đứng đầu thi Hội tức Hội nguyên.

Đến kỳ thi Đình thì Lương Thế Vinh lại đỗ đầu tức Trạng nguyên, Quách Đình Bảo đỗ Thám hoa, người đỗ Bảng nhãn là Nguyễn Đức Trinh. Đây đều là những người hay chữ từ nhỏ, vua Lê Thánh Tông trực tiếp ra bài thi văn sách rất vui mừng vì tìm được những nhân tài xuất chúng, bèn sai làm 3 lá cờ, mỗi người một lá, trong cờ thêu 4 câu sau:

Trạng nguyên Lương Thế Vinh, 

Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh, 

Thám hoa Quách Đình Bảo, 

Thiên hạ cộng tri danh

Ba năm sau đến khoa thi năm 1466, em trai của Đình Bảo là Quách Hữu Nghiêm dự thi và đỗ Hoàng Giáp.

Điều thú vị là hai anh em họ Quách đảm nhận những chức vụ tương tự nhau, Quách Đình Bảo làm đến Lễ, Hình bộ, Thượng thư kiêm Đô ngự sử, thì sau đấy người em là Hữu Nghiêm cũng nối gót đảm nhận chức vị ấy.

Quách Hữu Nghiêm giữ chức Tả thị lang bộ lễ, năm 1484 được phong phó Đô ngự sử Ngự sử đài, năm 1500 ông được thăng Thái thường tự khanh. Năm 1502, ông được cử làm Chánh sứ đi sứ nhà Minh, rồi thăng làm Đô ngự sử.

Họ Quách

Lễ hội Cồn Giang ở Thái Hà tưởng nhớ Quách Hữu Nghiêm. Ảnh internet

“Vua sáng, tôi hiền” Giang Sơn cực thịnh

Vua Lê Thánh Tông là vị Vua sáng suốt, anh minh, rời xa nịnh thần, quý trọng hiền tài giúp cho Đại Việt lên đến thời kỳ cực thịnh; được làm quan trong môi trường ấy, hai anh em họ Quách cũng thi thố hết được tài năng của mình.

Năm 1484 Lễ bộ Thượng thư Quách Đình Bảo tâu với Vua nên dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám nhằm khuyến học tìm được hiền tài trong nước. Vua chuẩn tấu cho dựng bia tiến sĩ ghi lại họ tên, thứ bậc những người thi đậu cả những khoa thi các đời Vua trước.

Năm 1494 vua Lê Thánh Tông lập ra hội Tao Đàn tập hợp 28 vì sao sáng về thơ văn trong bầu trời Đại Việt (gọi là nhị thập bát tú) trong đó có cả Quách Đình Bảo, Quách Hữu Nghiêm, Lương Thế Vinh,

Lễ hội Cồn Giang ở Thái Hà tưởng nhớ Quách Hữu Nghiêm

Lễ hội Cồn Giang ở Thái Hà tưởng nhớ Quách Hữu Nghiêm

Sự tài năng của 2 anh em họ Quách khiến nhà Vua tin tưởng luôn đem theo bên mình trong các trận chiến lớn. Trong cuộc tiến quân đánh Chiêm Thành, quân Đại Việt thắng lớn, Quách Hữu Nghiêm làm bài vịnh hào khí ba quân, lúc đó ông tình cờ gặp người con gái tên Hồ Thị Thành, vốn là dòng dõi Hoàng tộc, quốc sắc thi hương thì đem lòng yêu mến. Được Vua và anh của mình vun vén hai người đã nên duyên vợ chồng.

Năm 1471 quân Đại Việt đánh vào kinh thành Chà Bàn bắt được vua Chiêm, khiến nạn Chiêm Thành quấy nhiễu Đại Việt không còn nữa. Quách Hữu Nghiêm được cho về quê vợ, không bao lâu sau thì có được con trai đặt tên là Quách Quý Công, sau trở thành Anh Kiệt tướng quân và thành tổ chi họ Quách Hữu ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Anh Kiệt tướng quân sau này được cử làm thượng tướng, coi quân cẩm y vệ, luôn hầu giá bên vua.

Lê Qúy Đôn đánh giá Quách Hữu Nghiêm như sau: “là người phóng khoáng, có tài bàn luận”.

Cuốn “Đại Việt lịch triều đăng khoa lục” ghi chép lại rằng khi Quách Hữu Nghiêm đi sứ sang nhà Minh. Một lần thấy trên sân rồng có ánh nắng chiếu qua do cái lọng bị thủng một lỗ, Vua Minh ra câu đối rằng “Ốc lậu nhật xuyên hình như kê noãn tam tam tứ tứ”. (nghĩa là: Nhà thủng mặt trời xuyên qua, hình như trứng gà ba ba bốn bốn).

Quách Hữu Nghiêm đối rằng: “Giang trường phong lộng thế tự long lân điệp điệp trùng trùng” (nghĩa là: Sông lớn gió thổi giống như vẩy rồng trùng trùng điệp điệp)

Vua Minh thấy ông đối rất chỉnh lại hùng khí lẫm liệt thì hết lời khen ngợi. Quách Hữu Nghiêm cũng đã thể hiện tài thông minh, ứng đối mau lẹ qua các bài biểu, bài tâu đối trí, những lần được mời lên trên điện, vua Minh ban cho áo đại hồng có thêu con dê thần và đám mây bằng kim tuyến xen chỉ tơ sống, chỉ gai. Đồng thời khi trở về, vua Minh cũng sai cấp cho đoàn sứ bộ một thuyền lớn

Đồng thời vua Minh còn ban cho Hữu Nghiêm 4 chữ: “Tam Đại Di Tài”  (Tam Đại là ý chỉ 3 triều đại lớn là Hạ, Thương, Chu. Ý vua Minh ví ông như những nhân tài tuấn tù thời 3 Triều đại này).

Vua Minh tiễn đoàn sứ thần Đại Việt trở về nước rất trọng thể, kết quả chuyến đi rất tốt đẹp.

Họ Quách

Đền Thái Phúc thờ hai anh em họ Quách. (Ảnh từ Wikipedia)

Thời kỳ vua Lê Thánh Tôn là thời kỳ thịnh trị, nhà Vua trọng người hiền tài, tránh xa kẻ xấu. Trong Triều đình chỉ có “Vua sáng, tôi hiền” quả là môi trường tốt để những bậc hiền thần như anh em họ Quách dốc lòng phục vụ cho Giang Sơn Xã Tắc. Đại Việt lên đến thời kỳ toàn thịnh.

Trần Hưng

Tham khảo tư liệu từ “Kiến văn tiểu lục” , “Tam khôi bị lục”

Theo trithucvn.net

Chuyên đề:

Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc