Home » Cổ truyền, Tiêu Điểm, Văn hóa » Huy hoàng sử Việt: Dùng đại nghĩa tha chết cho 10 vạn quân từng đô hộ mình trở về nước

Một dân tộc sau 20 năm chịu cảnh nô lệ lầm than, thế nhưng sau khi giành được chiến thắng đã tha chết cho toàn bộ hơn 10 vạn đội quân đã từng đô hộ mình; không chỉ thế còn sửa sang đường xá, cung cấp ngựa, thuyền cũng như lương thực đầy đủ để đội quân này về nước.

Tấm lòng đại nhân đại nghĩa ấy tưởng như chỉ là chuyện hoang đường, nhưng đã được người dân Giao Chỉ thực hiện xưa kia, khiến kẻ địch chỉ có thể cảm kích đến chảy nước mắt, thua trận dù nhục nhã nhưng chỉ có thể tâm phục khẩu phục.

Bối cảnh

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra bắt đầu từ năm 1418, giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi cùng các nghĩa quân nhiều lần phải rút về núi Chí Linh trước sức mạnh của quân Minh.

Đến năm 1420 Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân, ra mắt chủ tướng Lê Lợi với cuốn sách “Bình Ngô” nêu những kế sách để đánh đuổi quân Minh, được Lê Lợi tin tưởng, ông đã vạch ra kế sách chiến lược đánh quân Minh, từ đó nghĩa quân Lam Sơn giành được nhiều thắng lợi quan trọng và ngày càng lớn mạnh, hết tiến về phía nam lại tiến ra bắc, tiến quân đến đâu giành thắng lợi đến đó.

Nguyễn Trãi

Tranh vẽ chân dung Nguyễn Trãi. Ảnh qua thuvienlichsu.com

Trước tình hình đó, vào tháng 9/1426 nhà Minh cử Vương Thông làm tổng binh đưa 5 vạn viện binh sang, hợp với 5 vạn quân ở Giao Chỉ thành 10 vạn tiến đánh quân Lam Sơn. Thế nhưng quân Minh bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại ở Tốt Động – Chúc Động, Vương Thông thua trận phải chạy vào thành Đông Quan (tức thành Thăng Long) cố thủ rồi cho người về nước xin thêm viện binh.

Nguyễn Trãi nhiều lần viết thư cho Vương Thông đề nghị nghị hòa, Vương Thông đồng ý nhằm kéo dài thời gian chờ viện binh, mặt khác cho đào hào cắm chông để thủ thành. Nguyễn Trãi biết được điều này nên cho quân vây thành chặt hơn, đồng thời gửi tiếp thư cho Vương Thông nói rõ nếu muốn hàng thì quân Minh phải ra hàng ngay

Biết quân Minh không hàng vì còn hy vọng quân cứu viện, Nguyễn Trãi bèn tính kế đánh bại 15 vạn viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh.

10 vạn quân của Liễu Thăng đến ải Chi Lăng thì bị phục binh xông ra đánh úp khiến bị tan rã hoàn toàn, Liễu Thăng cũng bị tử trận

Mộc Thạnh đưa 5 vạn quân đóng ở biên giới, chần chừ  chưa  vội tiến quân nhằm nghe ngóng cánh quân của Liễu Thăng. Quân Lam Sơn đưa một số tù binh mang sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đến báo cho Mộc Thạnh biết cánh quân 10 vạn này đã bị tiêu diệt, Liễu Thăng  đã tử trận.

Cánh quân của Mộc Thạnh hay tin thì kinh hoàng, phút chốc cả 5 vạn quân tan vỡ quay đầu chạy về nước. Quân Lam Sơn thừa thắng đuổi theo khiến hàng vạn quân Minh bị tiêu diệt.

15 vạn viện binh thoáng chốc đã bị diệt sạch, việc đánh thành Đông Quan lúc này là quá dễ với nghĩa quân Lam Sơn, nhiều tướng bàn nên tấn công hạ thành, nhưng Nguyễn Trãi muốn chiêu hàng để đỡ hao tổn  binh sĩ hai bên.

5 lần một thân một mình vào thành khuyên hàng

Nguyễn Trãi khuyên hàng

Người Trãi vào thành Đông Quan thuyết phục tướng lĩnh quân Minh đầu hàng. Ảnh trithucvn.net

Để chiêu hàng Vương Thông, Nguyễn Trãi không chỉ nhiều lần viết thư khuyên nhủ, mà ông cũng đã phải 5 lần một mình vào thành Đông Quan nhằm phân tích tình hình khuyên nhủ các tướng quân Minh nên đầu hàng, đồng thời cũng đảm bảo sẽ cung cấp đủ ngựa, thuyền, lương thực để toàn bộ 10 vạn Minh được an toàn trở về nước.

Thế nhưng quân Minh biết rằng, thời gian thống trị ở Giao Chỉ đã gây rất nhiều nợ máu cho người dân nơi đây, việc tha cho 10 vạn quân gây bao nhiêu tội ác an toàn về nước là điều không thể, nhất là các tướng chỉ huy, vì thế mà các tướng Minh đều liều chết quyết giữ thành chứ không hàng.

Vương Thông một mặt trả lời xem xét nhằm giảng hòa, một mặt cho quân dò la tình hình vây thành, tìm ra được điểm yếu, liền đem quân bất ngờ vượt thành đánh ra để phá vây, thế nhưng quân Lam Sơn đã chuẩn bị trước tình huống này, nên giả thua bỏ chạy, quân Minh đuổi theo thì rơi vào trận địa mai phục, Vương Thông bị ngã ngựa suýt nữa thì bị bắt, phải chạy tháo thân trở vào thành.

Vương Thông viết thư về báo với vua Minh về việc giảng hòa với quân Lam Sơn, trong thư có đoạn sau: “Chớ tham đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được…” (Đại Việt Sử ký Toàn thư).

Nguyễn Trãi dùng nhân nghĩa, kiên trì thuyết phục quân Minh đầu hàng, đúng như những gì ông viết trong “Bình Ngô đại cáo”:

“Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công”

Trước sự kiễn nhẫn, tâm đại nghĩa cùng sự chân thành của Nguyễn Trãi, lại  đang lâm cảnh đường cùng, Vương Thông đồng ý nghị hòa, liền đưa một số tướng làm con tin giao cho quân Lam Sơn, người dân cùng các tướng sĩ đến xem đều đề nghị xin cho giết bọn chúng, nhưng Lê Lợi đáp rằng : “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng, mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao?” (Đại Việt Sử ký Toàn thư).

Lê Lợi. (Ảnh hoangthanhthanglong.vn)

Lê Lợi. (Ảnh hoangthanhthanglong.vn)

Tội ác quân Minh gây ra cho người dân Giao Chỉ

Nói về tội ác mà quân Minh từng gây ra, Nguyễn Trãi đã mô tả trong “Bình Ngô đại cáo” như sau:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?”

Cuốn lịch sử của Trung Quốc là “Minh sử Bản mạt Kỷ sự” thì có ghi chép rằng “chôn sống hàng ngàn tù binh rồi chất xác họ thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu”.

Các thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn như Lê Lợi, Nguyễn trãi cùng các tướng sĩ khác đều có thù nhà với quân Minh

Chỉ có tâm đại nghĩa mới có thể tha cho toàn bộ đội quân từng  gây tội ác thấu trời xanh như vậy trở về nước.

Tội ác quân Minh (Tranh minh họa từ internet)

Tội ác quân Minh (Tranh minh họa từ internet)

Hội thề Đông Quan

Ngày 22 tháng 11 năm đinh mùi (1427) toàn bộ quân Minh ra đầu hàng, các thủ lĩnh của hai bên tham gia hội thề ở phía nam thành Đông Quan, ngay bên bờ Nhị Hà (nay là sông Hồng).

Rất nhiều người nhắc lại với chủ tướng Lê Lợi về sự thống khổ má người dân từng chịu đựng, cũng như tội ác của quân Minh đã từng gây ra, thế nhưng Lê Lợi đáp rằng: “Việc dùng binh lấy sự toàn quân là hơn cả. Nay hãy để cho lũ Vương Thông về nói với vua Minh, trả lại đất cho nước ta, không còn trở lại xâm lấn, thì ta còn cầu gì hơn nữa, hà tất phải giết hết, để kết mối thù với nước lớn” (Đại Việt Thông Sử).

Tại hội thề lịch sử Đông Quan, Vương Thông đại  diện cho các tướng sĩ quân Minh đọc “bài văn hội thề” thề rằng sẽ ngừng chiến mà rút quân về nước, việc rút quân về nước sẽ hoàn tất trong vòng 5 tháng, trên đường rút về không thực hiện việc cướp bóc sách nhiễu dân chúng, không tái diễn xâm lược Giao Chỉ.

Về phía nghĩa quân Lam Sơn cũng hứa cung cấp đủ ngựa, thuyền và lương thực cho hơn 10 vạn quân Minh rút về nước.

Kết thúc hội thề các tướng nhà Minh phải cúi đầu xin thề thực hiện đúng các cam kết mà nghĩa quân Lam Sơn đặt ra.

Quân “thiên triều” cảm kích xấu hổ chảy nước mắt, dù nhục nhã  nhưng phải tâm phục khẩu phục

Lê Lợi lệnh cho các lộ ở Bắc Giang và Lạng Sơn tu sửa đường xá để quân Minh rút về nước. Quân Lam Sơn cũng cung cấp 500 thuyền  và hơn 2 vạn ngựa cho quân Minh sử dụng, cũng như lương thực đầy đủ, các  quan lại đô hộ của nhà Minh cũng được thả về nước sau đó. Các quân tướng nhà Minh trước khi về nước đã vô cùng cảm kích đến trước dinh Bồ Đề mà lạy tạ.

Sách “Đại Việt thông sử” có ghi chép rằng các tướng Minh là Phương Chính, Mã Kỳ tới dinh Bố Đề cáo biệt Lê Lợi, ở lại chơi suốt cả buổi chiều, Lê Lợi sai sắm trâu ngựa, trướng vẽ và lễ phẩm hậu tặng.

“Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi chép rằng: Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Bọn Phương Chính vừa xúc động vừa hổ thẹn đến rơi nước mắt.

Vương Thông nói chuyện với Lê Lợi suốt đêm rồi mới về nước, Lê Lợi cho đem trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn chân rất hậu.

Về sự việc này Nguyễn Trãi có mô tả trong “Bình Ngô đại cáo” như sau:

“Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”

Cuốn lịch sử của Trung Quốc là “Minh sử kỷ sự bản mạt” ghi chép rằng: “Vương Thông lực yếu mà phải xin hoà, Liễu Thăng lại sang rồi bị thua chết. Sau đó lại xuống chiếu sai sứ sang giao hảo và rút quân về, nhục nhã thực bằng Tân, Trịnh hội thề dưới chân thành, hổ thẹn ngang với Kính Đường cắt đất giảng hoà vậy”

Từng là một dân tộc “đại nghĩa”

Một dân tộc suốt 20 chịu cảnh nô lệ lầm than, người dân bị đô hộ rên xiết thấu cả trời xanh, như những gì Nguyễn Trãi đã mô tả:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?”

Thế nhưng một dân tộc được xem là nhược tiểu ấy sau khi chiến thắng đội quân hùng mạnh của “thiên triều”, vẫn bao dung không ghi nhớ tội ác, không chỉ tha cho toàn quân đội quân hơn 10 vạn trở về nước, mà còn tu sửa đường xá, cung cấp ngựa xe, thuyền, và lương thực đầy đủ, theo như như trong lịch sử chỉ ghi nhận thì xảy ra ở Giao Chỉ, đúng như những gì Nguyễn Trãi mô tả

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Đội quân được gọi là “thiên triều” ấy chỉ có thể cảm kích, “hổ thẹn đến rơi nước mắt”, thua trận phải tâm phục khẩu phục sau này không còn có ý tưởng dòm ngó nước nam. Đó cũng chính là dùng đức để cảm hóa nhân tâm

Tư tưởng của Nguyễn Trãi “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn” thể hiện tấm lòng đại nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn, đánh dấu điểm sáng chói lọi trong sử Việt.

Tiếc thay đến nay tư tưởng “đại nghĩa” của cha ông xưa kia đã bị thay thế bởi “học thuyết đấu tranh” du nhập từ nước ngoài, khiến con người đối xử với nhau không còn “nghĩa” nữa, thay vào đó là “đấu tranh” khiến người đấu với người. Chỉ va chạm một chút là xô xát, quan hệ giữa người với người rất căng thẳng, “tình nghĩa” chỉ có thể được đong đếm bằng tiền.

Trong bối cảnh mối quan hệ xã hội như thế mới thấy cảm phục tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi cùng nghĩa quân Lam Sơn xưa kia, “lấy Đại Nghĩa để thắng hùng tàn” chứ không kích động “đấu tranh” hận thù.

Nếu xã hội ai ai cũng có thể bao dung tha thứ cho nhau, đối xử với nhau đều dùng “Nghĩa”, vứt bỏ “học thuyết đấu tranh” tồn tại bấy lâu nay, thì mối quan hệ xã hội mới có thể bền chặt, là cơ sở để xây dựng một đất nước hùng cường.

Trần Hưng

Theo trithucvn.net


Chưa có ý kiến... bạn sẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến!

Ý kiến bạn đọc